'Miếng bánh' thị trường CPTPP còn rất lớn, đâu là chìa khóa giúp doanh nghiệp hưởng lợi?

Sau hai năm thực thi CPTPP, xuất khẩu sang các thị trường mang đến những tín hiệu vui. (Nguồn: Twitter)

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức hội thảo Hai năm thực thi hiệp định CPTPP tại Việt Nam đánh giá từ góc nhìn doanh nghiệp, ngày 7/4, tại Hà Nội.

Doanh nghiệp được gì?

Tại Hội thảo, Chủ tịch VCCI TS. Vũ Tiến Lộc đánh giá, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là Hiệp định Thương mại (FTA) có tiêu chuẩn cao, việc thực thi hiệp định khá vất vả. Năm đầu tiên Hiệp định đi vào hiệu lực, doanh nghiệp phải chịu tác động của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đến năm thứ hai, doanh nghiệp lại chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.

TS. Vũ TIến Lộc cho rằng, "ít Hiệp định nào vất vả như CPTPP trong thực thi khi doanh nghiệp phải đương đầu với khó khăn lớn. Vì những điều đặc biệt này mà CPTPP là tâm điểm thu hút sự quan tâm của các nước".

Theo Chủ tịch VCCI, Việt Nam là một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp nhất trong các đối tác nhưng đã nỗ lực hết mình để thực thi Hiệp định.

Tính từ thời điểm có hiệu lực từ 14/1/2019, trải qua 2 năm thực hiện, doanh nghiệp Việt Nam đã có bước đi đầu tiên, đây là nhưng là bước đi quan trọng, đánh giá những vấn đề phát sinh là việc cần thiết, hiệu quả tiếp theo phụ thuộc vào hai năm đầu tiên. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Theo Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Nguyễn Cẩm Trang, sau hai năm thực thi CPTPP, xuất khẩu sang các thị trường mang đến những tín hiệu vui.

Cụ thể, năm 2019, xuất khẩu sang 6 nước trong CPTPP đạt 34,3 tỷ USD tăng 8,1%. Năm 2020, mặc Covid-19, xuất khẩu sang 6 nước này cũng duy trì ở mức gần tương đương 2019, đạt 34 tỷ USD. Tỷ trọng trong tổng xuất khẩu năm 2018 là 12,02%, năm 2019 là 13% và năm 2020 là 12,02%.

Bà Nguyễn Cẩm Trang nhận định: "Trong bối cảnh hầu như tất cả các đối tác CPTPP đều giảm nhập khẩu năm 2019, việc Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng này cho thấy CPTPP đang ít nhiều tạo ra những tác động ban đầu tích cực".

Các mặt hàng xuất khẩu kỳ vọng tăng trưởng là giày dép (năm 2019 đạt 2,1 tỷ USD tăng 15,1%; năm 2020 đạt 1,84 tỷ USD); dệt may (năm 2019 đạt 5,3 tỷ USD, tăng 7,4%; năm 2020 đạt 4,8 tỷ USD, giảm 9,6%); gỗ và sản phẩm gỗ năm 2019 đạt 1,72 tỷ USD; năm 2020 đạt 1,74 tỷ USD liên tục có tăng trưởng.

Bà Nguyễn Cẩm Trang nhấn mạnh, 2 thị trường nổi lên trong bức tranh xuất khẩu của Việt Nam sang khối CPTPP là Canada và Mexico.

Xuất khẩu sang Canada năm 2020 đạt kim ngạch gần 4,4 tỉ USD, tăng 12% - cao hơn nhiều so với mức tăng xuất khẩu chung (7%).

Trong khi đó, Mexico là đối tác thương mại lớn thứ 3 lại Mỹ Latinh. Trong thời gian qua, thương mại hai chiều tăng bình quân 14,6%/năm. Xuất khẩu tăng bình quân 18,8%/năm.

"Miếng bánh" thị trường còn rất lớn

Hưởng lợi về xuất khẩu nhưng VCCI đánh giá, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam năm 2019 chỉ đạt 1,67%, mức rất thấp không chỉ so với mức trung bình năm 2019 (37,2%) mà còn so với tỷ lệ tận dụng năm đầu tiên của nhiều FTA khác.

Đây là dấu hiệu quan ngại, cho thấy khả năng hiện thực hóa các lợi ích xuất khẩu trực tiếp từ Hiệp định này còn hạn chế.

VCCI nhận định, một số nguyên nhân của tình trạng này là: Ưu đãi thuế quan giai đoạn đầu của CPTPP có mức thấp hơn so với ưu đãi của các FTA mà Việt Nam đã có cùng với các đối tác. Bên cạnh đó, quy tắc xuất xứ của CPTPP tương đối khác biệt và phức tạp so với các FTA đòi hỏi thời gian để tìm hiểu và điều chỉnh sản xuất.

Kết quả năm đầu thực thi CPTPP, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không mấy khả quan. Năm 2019, Việt Nam thu hút xấp xỉ 9,5 tỷ USD vốn đầu tư từ các nước CPTPP giảm gần 36% so với năm 2018. Xét theo từng đối tác, đầu tư từ Việt Nam vào Nhật Bản giảm sâu nhất về giá trị (từ gần 9 tỷ USD năm 2018 xuống còn hơn 4 tỷ USD năm 2019, tương ứng mức giảm 52%).

Không chỉ thế, xét về tốc độ vốn FDI, nguồn vốn đã giảm mạnh từ các đối tác truyền thống như Australia (giảm gần 63%), Malaysia (giảm 50%).

Điểm sáng trong bức tranh này là vốn FDI từ các đối tác mới trong CPTPP như Canada, Mexico hoặc các đối tác truyền thống nhỏ (Brunei, New Zealand) lại được cải thiện đáng kể trong năm 2019.

Năm 2020, tình hình cải thiện hơn khi tổng vốn đầu tư thu hút từ các đối tác CPTPP đạt 11,8 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2019 trong bối cảnh tổng vốn đầu tư nước ngoài mà Việt Nam thu hút trong năm này giảm gần 25%.

VCCI cho rằng, tại các nước đối tác CPTPP, thị phần hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chiếm tỷ lệ còn thấp, chỉ từ 1% đến hơn 3%. Trong khi đó, "miếng bánh" thị trường 10 nước thành viên Hiệp định này còn rất lớn với quy mô nhập khẩu tới 2.500 tỷ USD.

Ngoài ra, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI Nguyễn Thị Thu Trang cho hay: "Trên trang web của chúng tôi có rất nhiều thông tin về Hiệp định CPTPP, các giải đáp nếu doanh nghiệp cần đều có, chia sẻ miễn phí, nhưng thực tế, số doanh nghiệp chủ động tìm đến vẫn rất thấp; doanh nghiệp cũng còn thờ ơ với các tác động của Hiệp định và các FTA khác”.

Để CPTPP thành trợ lực hiệu quả

Trong cuộc khảo sát về mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về Hiệp định CPTPP, VCCI thông tin, có 69% doanh nghiệp nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định này, cao hơn tất cả các FTA khác và có 25% doanh nghiệp có hiểu biết nhất định.

Tuy nhiên, 20 doanh nghiệp mới chỉ có 1 doanh nghiệp biết rõ về các cam kết Hiệp định CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.

VCCI nhấn mạnh, kết quả này chỉ ra rằng, với một FTA khó và phức tạp như Hiệp định CPTPP thì cần thiết phải có những biện pháp thông tin chuyên sâu, chi tiết và hữu ích hơn cho doanh nghiệp trong thời gian tới.

Để chuẩn bị cho tương lai xa mà ở đó Hiệp định CPTPP và các FTA có thể là một trợ lực hiệu quả, về phía doanh nghiệp, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên Phan Hữu Minh cho biết, doanh nghiệp khi tham gia Hiệp định CPTPP ngoài những thuận lợi mang lại, cần chuẩn chỉ và đi theo các quy định chung, quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ; đặc biệt, chủ động tìm hiểu các thông tin về thị trường và các quy định về nguồn gốc xuất xứ. Từ đó, có sự chuẩn bị về tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực để không bị sụt giảm về sản lượng và chất lượng.

TS. Vũ Tiến Lộc đưa ra quan điểm, các chương trình, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp cần tập trung vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống đặc biệt là ở các thị trường mới, cập nhật thông tin thị trường và kết nối cung cầu.

Ngoài ra, doanh nghiệp cần chủ động hơn tìm hiểu cơ hội, cam kết Hiệp định CPTPP và hành động hiện thực hóa lợi ích từ Hiệp định là đòi hỏi quan trọng nhất. Song song với đó, nâng cao năng lực cạnh tranh mà bắt đầu tư năng lực cạnh tranh của sản phẩm không chỉ là công việc thường xuyên mà còn là chìa khóa để doanh nghiệp chớp được các cơ hội từ quá trình hội nhập.

Về phía Chính phủ, để doanh nghiệp tiếp tục tận dụng tốt hơn Hiệp định này, bà Nguyễn Cẩm Trang nhận định, Chính phủ cần rà soát quy định pháp luật liên quan, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp; tăng cường về truyền thông, thông tin về thị trường, định hướng cho doanh nghiệp trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, giúp nâng cao năng lực cho doanh nghiệp.