Nghệ thuật từ những mảnh vỡ

Kiệt tác của những thứ không lành lặn

Trăm năm qua, từ những bậc thầy nề, nghõa (thợ thủ công xây dựng cung đình ế), những mảnh sành, mảnh thủy tinh vỡ, tưởng chừng như bỏ đi, dưới bàn tay khéo léo của những người thợ tài hoa đã tạo nên những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật độc đáo của lăng tẩm, đền đài có một không hai ở xứ cố kinh này.

Nhiều công trình kiến trúc cung đình ở Huế đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật khảm sành sứ, tiêu biểu như lăng Khải Định.

Nhiều người khi đến cố đô Huế phải kinh ngạc và mê mẩn các công trình khảm sành sứ này. Người ta có thể ngạc nhiên trước những kiến trúc tinh xảo, xa hoa và hoàn mỹ của những điện đài, lăng tẩm ở cung đình Huế, nhưng chẳng mấy ai biết rằng, sự nguy nga ấy được khởi đầu từ thứ cực kỳ mộc mạc và chân phương là những mảnh vỡ của sành sứ. Những lăng tẩm, cung điện xứ Huế trường tồn theo năm tháng, ẩn giấu trong mình biết bao thâm cung bí sử, tỏa ra nét thăng trầm, linh thiêng như vậy góp phần không nhỏ của nghệ thuật trang trí xuất phát từ dân gian. Phải đến thời Vua Khải Định, trang trí khảm sành sứ kết hợp thủy tinh màu mới phát triển rực rỡ. Trang trí khảm sành sứ vôi nề đã xuất hiện ở hàng loạt kiến trúc như Cung An Định, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, Thái Bình lâu ngự lãm, điện Kiến Trung… Tiêu biểu độc đáo nhất là nội thất lăng Khải Định.

Theo PGS. TS Phan Thanh Bình, hiệu trưởng Trường đại học Nghệ thuật Huế, nghề khảm sành sứ có từ thế kỷ XVII, ban đầu những người dân xứ Huế góp nhặt những phế phẩm từ các lò gốm để trang trí nhà cửa của mình cho thêm phần màu sắc và sinh động. Dần dần, việc khảm các mảnh sành sứ vào kiến trúc phát triển và ngày một tinh xảo hơn nên được ứng dụng vào đền chùa, miếu mạo và các kiến trúc hoàng gia của triều Nguyễn. Thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật khảm sành sứ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, thời kỳ này hầu hết các kiến trúc ở Huế tiêu biểu như Hoàng thành, phủ, đệ, đình làng, từ đường, lăng tẩm đều được khảm sành sứ. Phong cách kiến trúc này được đánh giá có vai trò và vị trí quan trọng hàng đầu trong việc tạo nên diện mạo tiêu biểu cho kiến trúc cung đình triều Nguyễn.

Lựa được gam màu phù hợp, nghệ nhân dùng một chiếc kìm cắt kim loại nhỏ để cắt gọt mảnh sứ cho thật bo tròn, khớp với họa tiết trên bức phù điêu.

Thời gian phong sương đằng đẵng phủ lên những cung điện đền đài ấy, nhưng những mảnh gốm sứ, mảnh chai, thủy tinh màu vẫn tỏa sáng và thành “tấm áo” bảo vệ cho từng công trình, làm sáng lên sắc màu cố đô giữa những rêu phong của thời gian. Những nghệ nhân dân gian dùng bàn tay khéo léo của mình để tạo nên những công trình thật đồ sộ và rực rỡ bằng nghệ thuật khảm sành sứ. Hơn 140 năm trị vì đóng đô ở Huế, nhà Nguyễn đã biến nghệ thuật khảm sành sứ từ dân gian thành một nghệ thuật đáng kinh ngạc. Những mảnh vỡ thô cứng, vô hồn với nghệ thuật khảm sắp xếp đặt cạnh nhau đã làm nên nghệ thuật mềm mại, tinh tế. Những mảnh vỡ ấy vượt qua khuôn khổ của vật liệu thông thường mà trở thành những tác phẩm sắc sảo, rực rỡ, lộng lẫy, làm nổi bật lên sự xa hoa, uy nghi của chốn cung đình và các bậc vua chúa.

Nghệ thuật khảm sành sứ có mặt ở hầu hết các không gian kiến trúc cung điện và lăng tẩm của nhà Nguyễn. Qua đôi tay của các nghệ nhân, những khối kiến trúc như cổng Chương Đức, Thái Bình Lâu, Thế Miếu, tam quan Hiển Lâm Các, Hưng Miếu, Duyệt Thị Đường, Triệu Miếu, cung Trường Sanh, cung Diên Thọ, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng bà Lệ Thiên Anh, lăng bà Từ Dũ, lăng Khải Định, cung An Định… trở nên lộng lẫy. Những mảnh vỡ tưởng chừng bỏ đi ấy trở thành những chất liệu nguy nga cho những công trình tuyệt tác, đưa nét đẹp dân gian của Huế lên một tầm cao mới, kết tinh thành nghệ thuật đẹp đẽ, là tinh hoa của cả một xứ sở kinh sư. Không chỉ phát triển thành nghề giúp người dân lo liệu “miếng cơm manh áo”, tay nghề nghệ nhân dần được mài giũa và đưa nghề khảm sành sứ vào nghệ thuật trang trí cung đình. Sau này, đền đài và miếu mạo các đời chúa Nguyễn được ứng dụng sâu sắc nghệ thuật khảm sành sứ.

Sống lại từ phong sương thời cuộc

Dẫu qua rồi cái thời vàng son nhưng nghệ thuật khảm sành sứ ở Huế, bên cạnh lớp nghệ nhân xưa còn lại, đã có hẳn lớp thợ trẻ tay nghề cao kế tục. Việc phục hồi nghề khảm sành sứ với họ không chỉ là chuyện mưu sinh nữa mà còn là cái hồn cốt tinh anh của người Huế. Họ đã góp phần khôi phục lại một số công trình hoang phế trở thành những công trình tuyệt tác từ mảnh vỡ của đời thường.

Khảm sành sứ đã tạo nên một nghệ thuật đặc sắc của riêng mảnh đất cố đô Huế, không ở đâu có và không thể trộn lẫn.

Theo nhiều nghệ nhân khảm sành sứ nổi tiếng ở xứ Huế, thì những mảnh gốm sứ, mảnh chai, thủy tinh màu được chọn lọc, cắt bẻ theo nhiều hình dáng để phù hợp với việc thi công. Cắt gọt mảnh sành phải dùng lực vừa phải, bởi mạnh quá thì mảnh sành sẽ bị vỡ, phải cắt lại từ đầu. Tùy theo dụng ý trang trí mà nghệ nhân sẽ có sự phân phối màu sắc, chất liệu và cường độ tiếp sáng khác nhau. Kỹ thuật cắt mảnh, mài giũa cũng cần sự khéo léo, các mảnh sành sứ đặt cạnh nhau phải khít, độ phối màu chuẩn xác và không bị lộ mạch vữa. Chúng được kết dính với nhau bằng phụ liệu thật đặc biệt. Thợ khảm sành sứ Hồ Văn Thành (48 tuổi, trú xã Vinh Thanh, huyện Phú Vang) với hơn 30 năm kinh nghiệm cho biết, việc kết dính các mảnh vỡ thành một tác phẩm hoàn chỉnh không hề dễ dàng.

Để các nguyên liệu bám chắc vào nhau, không bị ảnh hưởng của biến đổi môi trường như mưa nắng, thay đổi nhiệt độ,... thì nghệ nhân dùng chất kết dính làm từ hàu trộn vôi, dồn thêm một số loại lá cây như giấy dó, bông cẩn, dây tơ hồng,... và mật để tạo thành một chất keo cực kỳ đặc biệt. Chất keo này quánh dẻo, bền chắc, chịu được mưa nắng. Tỉ lệ thành phần nguyên liệu của loại vữa đặc biệt này tùy thuộc vào chất lượng và loại chất liệu sử dụng, tuy nhiên vôi là thành phần chính, vì vậy mà việc làm vôi, lọc vôi là công thức bí truyền của các phường, thợ.

Nghệ thuật khảm sành sứ tại Điện Kiến Trung mới được hoàn thành.

Để khảm được những bức tranh lên tường, trên mái đẹp đến như vậy đòi hỏi người thợ phải có đôi bàn tay rất khéo léo và tài hoa. Xử lý kỹ thuật chất liệu ở mặt phẳng đứng cũng khác so với mặt phẳng nghiêng và ở các vòm cong, gác mái hay các ô hộc kiến trúc. Từ hàng ngàn mảnh bát vỡ, sành sứ, thủy tinh đủ màu sắc bình thường, những người thợ đã đắp chúng thành những bức tranh, câu đối, phù điêu, hoa văn, họa tiết, điển tích khiến nhiều người phải trầm trồ. Ngay cả khi được nhìn tận mắt, chạm tay lên những bức phù điêu, nhiều người vẫn không hiểu sao có thể chọn lựa trong hàng trăm hàng vạn mảnh vỡ rồi gắn kết chúng thành một bức tranh hoàn hảo đến như vậy. Từ bờ tường cho đến mái điện của lăng tẩm đền đài, từ bức bình phong trước ngôi nhà cổ cho đến những khu lăng mộ, thật sự là một công trình khảm sành sứ đáng kinh ngạc. Có những công trình như khiến nhiều người tưởng chừng lạc trôi về thời gian xưa cũ và trầm mặc giữa các điển tích như cá chép hóa rồng, lưỡng long tranh châu, phù điêu mai lan cúc trúc, chim công… với màu sắc lung linh rực rỡ.

Như nghệ nhân Trần Viết Xảo, là nghệ nhân khảm sành sứ truyền thống (nề, nghõa) chia sẻ, từ mảnh vỡ của những loại gốm cổ, sành sứ có niên đại từ xa xưa, chúng đều được lựa chọn kỹ lưỡng theo mức độ của công trình. Chẳng hạn như đình chùa, nhà dân, mộ táng thông thường thì trang trí họa tiết đơn giản hơn. Nếu là lăng tẩm, đền đài của vua chúa thì cầu kỳ, phức tạp và các loại men khảm cũng có độ bền ưu việt hơn. Mỗi công trình kiến trúc khảm sành sứ không chỉ mang tính mỹ thuật mà nó còn thể hiện sự cao sang của các bậc quyền quý. Vì vậy, có khi để phục vụ cho một công trình mà sử dụng hàng tấn các mảnh vỡ, trong đó có cả các mảnh bình quý, chén quý để thực hiện ý đồ nghệ thuật của người nghệ nhân. Bên cạnh đó, nếu là những công trình quan trọng, thì nguồn nguyên liệu để khảm phải càng cổ càng tốt. Vì các mảnh vỡ không giống nhau nên tuy nhìn thấy rồng, phượng, chim muông, hoa lá khắp nơi ở Huế nhưng tuyệt nhiên sẽ không tìm được tác phẩm khảm sành sứ nào giống nhau.

Theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế, hiện ở Huế có nhiều công trình kiến trúc cung đình đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật khảm mảnh sành, sứ như ở Điện Thái Hòa, lăng Tự Đức, lăng Khải Định… và mới đây nhất là việc phục dựng lại Điện Kiến Trung từ những bức ảnh tư liệu lịch sử, đang mang đến một kiệt tác về nghệ thuật khảm sành sứ của xứ Huế.

Để hoàn thành một công trình khảm sành sứ thường mất khoảng từ 1-3 tháng, tùy thuộc vào quy mô lớn nhỏ của công trình và độ “rành nghề” của người thợ khảm. Có công trình cầu kỳ, người thợ khảm sành sứ phải mất cả năm trời, tốn đến hàng ngàn mảnh sành sứ được cắt ra với đủ loại màu sắc, chủng loại mới hoàn thành xong. Ngày nay, nghề khảm sành ở Huế sau một thời gian mai một đang hưng thịnh trở lại. Họ góp phần giữ lại cái hồn cốt tinh anh của xứ cố kinh, góp phần khôi phục lại những công trình bị bỏ hoang phế trở thành di sản quý giá cho quốc gia và cho nhân loại.

Tiêu Dao - Thanh Bình