Chứng khoán, tiết kiệm hay mua vàng: Có tiền nhàn rỗi cũng... đau đầu!

Vàng đang lên đỉnh, chạm vào bỏng tay?

Trong khoảng 2 tuần qua, bất chấp á vàng thế giới lập đỉnh mọi thời đại vùng quanh 2.150 USD/ounce rồi lao dốc về dưới 1.980 USD/ounce, giá vàng trong nước vẫn duy trì ở mức rất cao.

Hiện, giá vàng SJC được các doanh nghiệp niêm yết mua vào 73,4 triệu đồng/lượng, bán ra 74,4 triệu đồng/lượng. Giá vàng trang sức, giá vàng nhẫn 24K các loại cũng được giao dịch quanh 60,8 triệu đồng/lượng mua vào, 61,8 triệu đồng/lượng bán ra.

Việc giá vàng trong nước neo giữ ở mức cao, nhiều người có tiền nhàn rỗi muốn chuyển sang kênh đầu tư này vì nghĩ sẽ có mức sinh lời cao hơn gửi tiền ngân hàng.

Ông Nguyễn Ngọc Trọng, Giám đốc Công ty vàng Đối tác mới, cho rằng tín hiệu hạ lãi suất của Fed khiến USD bớt hấp dẫn, vàng được hỗ trợ tăng giá. Tuy nhiên, thông tin giảm lãi suất đã được phản ánh vào thị trường trước đó, giá vàng đã tăng cao đạt mức kỷ lục. Sau đó, lực bán chốt lời làm giá vàng xuyên thủng mức 2.000 USD/ounce, xuống đến 1.980 USD/ounce. Về xu hướng chủ đạo, vàng tăng giá trung dài hạn và có thể lên lại mức đỉnh 2.150 USD/ounce.

"Thế nhưng quan sát thị trường mấy ngày nay thì kim loại quý vẫn chưa tăng một cách bền vững. Lực bán chốt lời có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt khi vàng tăng đột ngột thì rất dễ đứt gãy. Nếu vàng tăng và duy trì qua mức giá 2.050 USD/ounce thì mới rõ xu hướng đi lên.

Việc mua vàng nắm giữ cần thời gian từ 6 tháng trở lên chứ không nên lướt sóng vì sẽ lỗ ngay. Không những giá biến động thất thường mà biên độ giá mua bán cũng chênh lệch khá cao, người mua vàng lỗ ngay 1 triệu đồng/lượng thì cũng nên cân nhắc điểm mua", ông Trọng khuyến cáo.

Lựa chọn kênh đầu tư nào cho xu hướng sắp tới?

Lãi suất tiết kiệm liên tục chìm sâu

Từ ngày 11/12, BIDV giảm lãi suất huy động 0,1 điểm phần trăm các kỳ hạn từ 1-11 tháng. Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến, kỳ hạn 1-2 tháng còn 3,1%/năm, 3-5 tháng còn 3,4%/năm; 6-11 tháng chỉ còn 4,4%/năm, 12-36 tháng giữ nguyên 5,3%/năm.

Tương tự, một ngân hàng khác trong nhóm “big 4” là Vietcombank cũng vừa giảm lãi suất huy động 0,2 điểm phần trăm các kỳ hạn từ 1-11 tháng, đánh dấu lần giảm thứ hai liên tiếp chỉ trong vòng nửa tháng qua. Hiện, kỳ hạn 1-2 tháng của Vietcombank chỉ còn 2,2%/năm; 3-5 tháng chỉ còn 2,5%/năm; 6-11 tháng chỉ còn 3,5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 4,8% – thấp nhất trong nhiều năm qua.

Ở nhóm ngân hàng thương mại tư nhân, hàng loạt ngân hàng cũng liên tục giảm lãi suất huy động từ đầu tháng 12 tới nay, bất chấp đang là thời điểm cuối năm dòng tiền gửi ngân hàng thường chịu áp lực. Có thể kể đến như Techcombank với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên giảm chỉ còn 4,7%/năm – thấp hơn cả Vietcombank.

Ngoài ra còn có MBB, VietABank, ABBank, Eximbank, PGBank, KienLong Bank… Thậm chí, ngay cả SCB vốn đối mặt với không ít thông tin tiêu cực thời gian qua cũng có động thái giảm đều 0,2 điểm phần trăm ở các kỳ hạn từ 1-11 tháng từ ngày 7-12 vừa qua.

Thống kê cho thấy hiện lãi suất tiền gửi bình quân của các ngân hàng kỳ hạn 1-5 tháng chỉ từ 3,5-3,8%/năm, cách xa mức trần lãi suất tiết kiệm theo quy định hiện nay là 4,75%/năm. Các kỳ hạn 6-11 tháng nằm từ 4,8-5%/năm, trong khi các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở vùng 5,2-5,5%/năm.

Với lãi suất tiết kiệm 12 tháng đang về gần vùng 5%/năm như hiện nay, thấp nhất một cách bất ngờ là 3,8%/năm tại ABBank, cao nhất là 5,7%/năm tại OceanBank và VietBank tính đến ngày 11/12, thì khi gửi 1 tỷ đồng tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng chỉ có thể nhận mức lãi từ 38-57 triệu đồng tùy ngân hàng trong vòng một năm tới.

Nếu lấy lãi suất danh nghĩa mà các ngân hàng đang niêm yết trừ đi lạm phát kỳ vọng 12 tháng tới, lãi suất thực bình quân chỉ còn 0,5-1%/năm. So với mục tiêu tăng trưởng GDP định hướng năm 2024 là 6-6,5%, kênh tiết kiệm thật sự đã kém hấp dẫn.

Lãi suất tiền gửi liên tục đi xuống mức thấp, vàng đang ở đỉnh khiến các kênh đầu tư khác, đơn cử như thị trường chứng khoán, có nhiều cơ hội phát triển.

Xu thế dòng vốn dịch chuyển dần?

Nhìn sang thị trường chứng khoán, hệ số P/E của chỉ số VN-Index tính đến ngày 11/12 đang ở mức 13,86 lần, dù có tăng so với mức 10,51 lần vào cuối năm 2022, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình năm năm qua và cũng thấp hơn nhiều so với P/E của kênh tiết kiệm ngân hàng.

Đáng chú ý là P/E của chỉ số VN30 thậm chí còn thấp hơn khi chưa đến 12 lần, cho thấy nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn dường như đang bị định giá khá thấp. Ngược lại, chỉ số HNX Index đang có P/E lên tới 18,4 lần, tăng mạnh từ mức 12,3 lần vào cuối năm 2022, còn UpCom Index có P/E cũng tăng từ mức 10,8 lần lên hơn 17,5 lần.

Với lợi nhuận năm 2024 của các doanh nghiệp kỳ vọng phục hồi mạnh, định giá của chứng khoán tại vùng điểm số hiện nay càng hấp dẫn hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp trên sàn HoSE. Research dự báo, sang năm 2024, tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết có thể đạt 17% và mức tăng trưởng sẽ đến từ nhiều nhóm ngành hơn, bao gồm bán lẻ, thép, phân bón, thủy sản…

Trong báo cáo mới đây, Chứng khoán dự báo thu nhập trên cổ phần (EPS) toàn thị trường tăng trưởng 3,7% năm 2023 và 18% năm 2024, dựa trên kinh tế phục hồi tích cực hơn, các chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách tiền tệ duy trì nới lỏng với lãi suất đã giảm mạnh trong năm nay.

Theo đó, công ty chứng khoán này dự báo VN-Index có thể đạt vùng 1.400-1.450 điểm trong năm 2024, với kỳ vọng P/E của VN-Index sẽ phục hồi về mức trung bình năm năm là khoảng 15 lần do thị trường tài chính trở lại các điều kiện bình thường.

Đáng lưu ý là mặt bằng lãi suất có thể tiếp tục xuống thấp hơn nữa trong năm sau. Theo thông tin từ đại diện của , đến nay mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm; lãi suất tiền gửi và cho vay mới của các ngân hàng thương mại giảm khoảng hơn 2%/năm so với cuối năm 2022.

Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, các biện pháp của NHNN và các cam kết giảm lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

Mặt bằng lãi suất nếu có thể tiếp tục đi xuống không chỉ giúp các doanh nghiệp tiết giảm thêm chi phí tài chính, nâng định giá cổ phiếu, mà sẽ thúc đẩy dòng tiền gửi ngân hàng dịch chuyển một phần sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán với kỳ vọng hưởng mức lợi suất hấp dẫn hơn. Xu hướng này được cho là sẽ rõ nét hơn trong giai đoạn từ năm sau trở đi, nhất là khi chứng khoán cũng đang đứng trước những cơ hội mới đang được mở ra.

VNDirect cho rằng nhà đầu tư có thể gia tăng tỷ trọng cổ phiếu khi mặt bằng lãi suất trong nước đã hạ nhiệt rõ nét kể từ đầu năm 2023.

Lãi suất giảm sẽ dần có tác động tích cực tới thu nhập (earnings) thị trường (đặc biệt là từ quý 4/23 trở đi), cũng như giảm chi phí cơ hội khi đầu tư chứng khoán. Các nhóm ngành thường có hiệu suất tốt trong giai đoạn đầu lãi suất hạ nhiệt là: Tài chính, công nghệ, công nghiệp, vật liệu xây dựng và tiêu dùng thiết yếu.

Tiền gửi tiết kiệm sẽ kém hấp dẫn hơn trong nửa sau của năm 2023. Lãi suất huy động (bình quân) kỳ hạn 12 tháng có thể về mức 5,0-5,2%/năm vào cuối năm 2023 và duy trì ở vùng thấp này trong năm 2024. Dòng tiền của nhà đầu tư có thể dịch chuyển một phần sang các kênh đầu tư khác để hưởng mức lợi suất cao hơn. Xu hướng này sẽ rõ nét hơn trong giai đoạn cuối năm 2023 và đầu năm 2024 trở đi.

Anh Nhi