Nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo bão, lũ

Phân tích số liệu ra-đa tại Trung tâm Điều hành tác nghiệp thuộc Tổng cục Khí tượng thủy văn.

Thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng, sự đầu tư của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN và MT), ngành khí tượng thủy văn (KTTV) đã từng bước hình thành hệ thống thông tin chuyên ngành hiện đại, nhờ đó nâng cao được chất lượng dự báo hạn dài, hạn ngắn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tổng Cục trưởng KTTV (Bộ TN và MT) Trần Hồng Thái cho biết: Hiện nay, hệ thống thông tin KTTV của Việt Nam đã được đầu tư hiện đại và khá đồng bộ, từ hệ thống máy chủ cho đến các hệ thống thông tin chuyên ngành; hệ thống kênh thông tin quốc tế, hệ thống mạng riêng luôn bảo đảm hoạt động ổn định, thông suốt trong mọi tình huống phục vụ tốt yêu cầu của công tác dự báo, cảnh báo bão, lũ tới các bộ, ngành, địa phương trên cả nước. Ngành cũng đã xây dựng được mạng lưới quan trắc KTTV mật độ các trạm dày, với tổng số 284 trạm khí tượng bề mặt, 29 trạm khí tượng nông nghiệp, 14 trạm bức xạ, 782 trạm đo mưa tự động, 359 trạm thủy văn, 27 trạm khí tượng hải văn và 180 trạm, điểm đo môi trường. Mạng lưới trạm khí tượng cao không gồm có sáu trạm thám không vô tuyến; tám trạm đo gió trên cao bằng máy kinh vĩ quang học; ba trạm đo tổng lượng ô-dôn - bức xạ cực tím, 10 trạm ra-đa thời tiết trải khắp mọi miền đất nước, 18 trạm định vị sét. Ngoài ra, với nhu cầu thông tin mang tính chi tiết, định lượng trong các thông tin dự báo KTTV của xã hội, ngành KTTV Việt Nam đã từng bước hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ dự báo số trong dự báo các loại hình thời tiết nguy hiểm, mang tính cực đoan như mưa lớn, bão...

Hiện nay, ngành KTTV đã thực hiện cảnh báo bão sớm trước năm ngày, dự báo, cảnh báo áp thấp nhiệt đới trước ba ngày; dự báo, cảnh báo mưa lớn trước từ hai đến ba ngày với độ tin cậy khoảng 75%; cảnh báo rét đậm, rét hại trước từ hai đến ba ngày với độ tin cậy từ 80% đến 90%; cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền trung, Tây Nguyên trước từ một đến hai ngày, các sông khu vực Bắc Bộ, Nam Bộ trước từ ba đến năm ngày thường đạt từ 70% đến 80%; cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ hai đến ba ngày có độ tin cậy 70%. Nhờ dự báo, cảnh báo kịp thời đã giúp các bộ, ngành, địa phương chủ động điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội; cơ cấu sản xuất, mùa vụ, triển khai các biện pháp phòng tránh, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.

Tuy nhiên, về mặt dự báo định lượng (cường độ bão, cường độ mưa lớn,...) vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân trực tiếp là hiện nay chúng ta đang trải qua tình hình biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khiến thiên tai hoạt động trái quy luật, bất thường, trong khi mạng lưới thám sát thiên tai chưa đáp ứng tình hình thực tiễn. Trong khi đó, các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển đa dạng với nhiều ngành, nghề khác nhau, nhất là các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng mở rộng cả ở vùng núi và vùng biển, trong đó nhiều vùng có nguy cơ thiên tai KTTV cao, dẫn đến những thách thức và khó khăn mới trong công tác dự báo KTTV. Thí dụ, đối với bão, áp thấp nhiệt đới, nguyên nhân khách quan lớn nhất là chúng ta không có nhiều thông tin giám sát, quan trắc trên vùng biển, việc xác định cường độ bão duy nhất thông qua hệ thống vệ tinh khí tượng. Việc thiếu hệ thống giám sát trên biển dẫn đến việc đánh giá cường độ của cơn bão và việc dự báo, cảnh báo có sai số.

Mục tiêu phấn đấu của ngành KTTV đến năm 2030 là phát triển đồng bộ mạng lưới trạm tự động quan trắc về KTTV, hải văn theo hướng tăng mật độ các trạm tự động lên 70% so với số lượng hiện có; tiếp tục hiện đại toàn diện, đồng bộ từ khâu quan trắc, đo đạc, lưu trữ, xử lý số liệu cho đến xây dựng, hoàn thiện công nghệ dự báo hiện đại; đào tạo cán bộ chất lượng cao và tăng cường hợp tác quốc tế để làm chủ công nghệ, nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV. Để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra, bên cạnh việc tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về KTTV nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý lĩnh vực KTTV, ngành KTTV sẽ tập trung xây dựng các phương pháp dự báo, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ, tiến bộ kỹ thuật vào khai thác số liệu điều tra cơ bản và nâng cao chất lượng dự báo KTTV. Xây dựng các phương án tổ chức quan trắc đo đạc và thông tin liên lạc nhằm bảo đảm thu thập đầy đủ, chính xác, điện báo kịp thời số liệu KTTV và môi trường trong mọi tình huống. Quy hoạch lại các hệ thống truyền dẫn, luồng dữ liệu của các đơn vị trực thuộc nhằm khắc phục các bất cập về hiện trạng hệ thống thông tin, tiết kiệm kinh phí và nhân lực duy trì hệ thống. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về KTTV, nhất là cách phòng tránh các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như: bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lớn, lũ quét, dông, tố, lốc để nâng cao hiểu biết của người dân, chủ động phòng, tránh và giảm thiệt hại do thiên tai...

KHÁNH HUY