Lụa Việt: Tìm lại thời 'hoàng kim'

“Rối” vùng nguyên liệu

Hiện cả nước có gần 40.000 hộ nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Diện tích trồng dâu năm 2023 khoảng 13.200ha, sản lượng kén đạt hơn 16.800 tấn/năm, sản lượng tơ đạt khoảng 2.000 tấn/năm. Việt Nam hiện đứng thứ ba trên thế giới về sản lượng tơ, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Giá trị xuất khẩu tơ lụa năm 2022 đạt 70 triệu USD. Phần lớn tơ thô của Việt Nam được xuất khẩu sang Ấn Độ, chiếm tỷ trọng hơn 90%.

Trồng dâu, nuôi tằm hiện được phát triển ở 36 tỉnh/thành, nhưng tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đắk Nông. 3 tỉnh Tây Nguyên này chiếm gần 75% tổng diện tích trồng dâu trên cả nước.

Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng, cho biết đến năm 2023, diện tích trồng dâu tại Lâm Đồng đạt 9.882 ha (trong đó diện tích trồng dâu ứng dụng công nghệ cao đạt trên 2.000 ha), với khoảng trên 15.000 hộ trồng dâu nuôi tằm. Diện tích cây dâu tằm tăng bình quân 7,6%/năm. Sản lượng lá dâu đạt 250.398 tấn/năm, sản lượng kén tằm đạt 14.867 tấn/năm; sản lượng sợi tơ các loại đạt 2.117 tấn.

Lâm Đồng hiện có 200 cơ sở nuôi tằm con tập trung (công suất sản xuất bình quân 100 hộp trứng/cơ sở/tháng vào mùa nắng và 200 hộp trứng/cơ sở/tháng vào mùa mưa). Tuy nhiên, do chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến ngành chăn nuôi tằm phát triển thiếu bền vững.

Ông Nguyễn Đức Điển, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái, cho hay tỉnh Yên Bái đã ban hành Nghị quyết số 40/2018 để người dân phát triển trồng dâu, nuôi tằm. Từ năm 2021 đến tháng 9/2023, UBND tỉnh Yên Bái đã phê duyệt kinh phí hỗ trợ 9 dự án phát triển sản xuất trồng dâu, nuôi tằm liên kết theo chuỗi giá trị với quy mô hơn 570ha.

Nhận xét về ngành dâu tằm tơ, ông Nguyễn Doãn Hùng, Trưởng phòng Khuyến nông trồng trọt và lâm nghiệp của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, cho rằng ngành dâu tằm tơ Việt Nam vẫn bị “rối” suốt nhiều năm qua, đang gặp nhiều trở ngại cả về sản xuất và thị trường. Thực tế, nghề trồng dâu nuôi tằm vẫn chủ yếu tự phát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Trình độ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, canh tác, phòng trừ dịch bệnh còn thấp. Việc nuôi tằm vẫn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, biến đổi khí hậu, sâu bệnh hại… khiến sản lượng kén thực tế thấp hơn nhiều so với năng suất tiềm năng.

“Nước ta chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài. Các giống tằm trong nước đã cải thiện chất lượng tơ nhưng chỉ chiếm thị phần nhỏ”, ông Nguyễn Doãn Hùng nêu thực trạng; đồng thời ông Hùng cho biết hiện chưa có quy hoạch tổng thể và chương trình phát triển dài hạn để hình thành các vùng nguyên liệu gắn với tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Nhiều khâu trong sản xuất dựa vào thủ công. Trong khi đó, mối liên kết giữa người sản xuất và người mua kén không chặt chẽ, thiếu tính bền vững. Điều này dẫn đến việc ngành dâu tằm tơ chủ yếu sản xuất kén, chế biến tơ thô để xuất khẩu nguyên liệu.

Theo nhận định của một số chuyên gia, ngành dâu tằm tơ lụa của Việt Nam đang bị tụt hậu xa so với Trung Quốc. Dù sản phẩm nhiều làng nghề lụa ở nước ta vẫn giữ được chất lượng sản phẩm truyền thống cổ xưa, nhưng áo lụa chỉ thích hợp với việc giặt bằng tay, không sử dụng xà phòng. Nay, lụa Trung Quốc đã có nhiều cải tiến về công nghệ, có thể cho phép giặt bằng máy mà không bị nhăn nhúm.

Nhiều nông dân nước ta vẫn nuôi loại kén tằm màu vàng, khi ươm tơ buộc phải tẩy bằng hóa chất, sau đó nhuộm sang các màu khác. Trong khi các giống tằm thế hệ mới của Trung Quốc cho tơ màu trắng, nên không cần qua công đoạn tẩy, giúp lụa đạt chất lượng tốt hơn. Giống tằm thế hệ mới của Trung Quốc cũng cho sợi kén dài hơn, không bị đứt mảnh, năng suất tơ cao hơn.

Hệ thống sản xuất đồng bộ với phân phối

TS. Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương, cho biết hiện trung tâm đã nghiên cứu ra giống dâu GQ2 được trồng phổ biến tại miền Bắc và miền Trung, năng suất trung bình đạt trên 35 tấn lá/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt năng suất 40 - 45 tấn/ha. Với vùng Tây Nguyên, 2 giống dâu S7-CB và VA-201 được trồng phổ biến, bà con nông dân quen gọi là giống siêu lá và giống siêu cành.

Về giống tằm, có hai loại tằm chính là tằm dâu và tằm thầu dầu lá sắn. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu giống đa hệ kén vàng (một loại thuộc tằm dâu) và giống tằm sắn. Hơn 90% nhu cầu giống tằm lưỡng hệ (giống cho chất lượng tơ tốt nhưng khó nuôi) vẫn đang phải nhập khẩu từ Trung Quốc.

“Hệ thống sản xuất trứng giống tằm nội địa thay thế cho nhập khẩu cần được xây dựng đồng bộ với hệ thống phân phối tới tay người dân, là cơ sở để huy động sự tham gia của các doanh nghiệp trong những giai đoạn tiếp theo”, ông Lê Hồng Vân khuyến nghị...

Ngoài vấn đề giống cho ngành dâu tăm tờ, bà Lương Thanh Hạnh, Giám đốc HTX Dệt đũi Nam Cao, Thái Bình thông tin, qua việc tiếp xúc với khách quốc tế, những làng nghề sản xuất lụa tơ tằm có thể đa dạng hóa nguồn thu như cho du khách trải nghiệm dệt lụa, xây dựng không gian văn hóa, du lịch gắn với làng nghề, phát triển nhiều sản phẩm từ tơ tằm, dàn đủ phân khúc cho tập khách hàng.

Ông Lê Quang Tú, Chủ tịch Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam đề xuất xây dựng chiến lược phát triển ngành. Theo ông, chỉ khi có một chiến lược bài bản, hoàn chỉnh, những giải pháp đồng bộ mới được triển khai, giúp người nông dân, doanh nghiệp vượt qua các thách thức về giống, vùng nguyên liệu, thị trường và đổi mới sáng tạo.

"Muốn có nguồn kén nguyên liệu đủ cho sản xuất, chúng ta cần đầu tư cho người nông dân thâm canh vườn dâu, đầu tư nuôi tằm tốt hơn nữa để tạo ra nguồn kén tốt nhất đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp tơ, dệt", ông Tú trăn trở.

Bá Phú

Tạp chí in số tháng 1+2/2024