Hoàn thiện chính sách, tạo dựng những không gian phát triển mới

Mekong : Nhìn lại năm 2023, sau đại dịch Covid-19, nền kinh tế tiếp tục bị “bủa vây” bởi những khó khăn từ xung đột địa chính trị giữa các nước, lạm phát neo cao và thương mại và đầu tư toàn cầu sụt giảm. Tuy vậy, đâu là lý do kinh tế Việt Nam vẫn vượt qua các “cơn gió ngược” trở thành điểm sáng tăng trưởng kinh tế trong khu vực, và cảm nhận của Bộ trưởng lúc này như thế nào?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Từ đầu năm 2023, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức, nền kinh tế Việt Nam đã vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực và là điểm sáng trong bức tranh toàn cầu.

Những kết quả đạt được đó là nhờ sự đồng lòng, nỗ lực phấn đấu của người dân, doanh nghiệp (DN) dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự phối hợp chặt chẽ, đồng hành giữa các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ của các cấp, ngành, địa phương, để kịp thời thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Việt Nam đã ứng phó, thích ứng hiệu quả, khá thành công với bối cảnh, tình hình mới, được các tổ chức quốc tế, tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá cao. Nổi bật là:

Sự chủ động, linh hoạt, chuyển hướng trọng tâm kịp thời trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng gắn với duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt là những nỗ lực của DN, người dân để ứng phó, thích ứng từ bối cảnh, tình hình mới của thế giới, khu vực và trong nước.

Chúng ta cũng tích cực thực hiện đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, tổ chức các Hội nghị điều phối vùng, thúc đẩy liên kết vùng, tăng cường xúc tiến, thu hút đầu tư… Chủ động tìm kiếm, tranh thủ cơ hội hợp tác, giữa xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư, chuỗi cung ứng trong khu vực, toàn cầu để thu hút các dự án quy mô lớn, hiện đại trong ngành chế biến, chế tạo, các ngành, lĩnh vực công nghiệp mới.

Đặc biệt, tập trung hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ vấn đề pháp lý của DN, dự án đầu tư, đấu thầu, đầu tư công, NSNN, các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp...

Từng bước khắc phục, vượt qua khó khăn, thách thức trước mắt của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn; đồng thời nâng cao năng lực nội tại, phát triển các động lực tăng trưởng mới, tạo nền tảng để nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong trung và dài hạn.

Những kết quả đạt được nêu trên cũng là những nhiệm vụ, giải pháp các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục phát huy, thực hiện hiệu quả trong năm 2024 để thực hiện thắng lợi, đạt kết quả cao nhất các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

Mekong ASEAN: Bước sang năm 2024, cộng đồng DN, người dân đặt nhiều niềm tin vào sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế từ hạ tầng thể chế - chính sách thông thoáng hơn, hạ tầng quy hoạch đồng bộ hơn... Xin Bộ trưởng chia sẻ đánh giá về công tác hoàn thiện hạ tầng thể chế chính sách, quy hoạch trong năm vừa qua và những tác động tích cực tới triển vọng phát triển năm 2024?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là việc mới, việc khó nhưng cũng là cơ hội lớn bố trí, sắp xếp lại không gian phát triển của quốc gia để đạt mục tiêu, khát vọng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Được sự quan tâm chỉ đạo và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác quy hoạch trong thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng.

Về thể chế, đến nay, hệ thống pháp luật về quy hoạch cơ bản được hoàn thiện. Nghị quyết số 61/2022/QH15 đã tiếp tục tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy trình, thủ tục trong triển khai Luật Quy hoạch và các luật, pháp lệnh có liên quan. Chính phủ và các Bộ có liên quan đã ban hành 16 nghị định, các Bộ ban hành 12 thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh có liên quan đến quy hoạch.

Về công tác lập quy hoạch, đến ngày 31/12/2023 đã có 109/110 quy hoạch đã được quyết định, phê duyệt và thẩm định xong, đang hoàn thiện để trình phê duyệt (đạt 99,1%). Đối với 71 quy hoạch đã được phê duyệt trong năm 2023, nổi bật là Quy hoạch tổng thể quốc gia đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023, các quy hoạch ngành quốc gia và 50 quy hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Về công tác triển khai lập quy hoạch, việc triển khai thực hiện quy hoạch đã đạt nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt là kết quả rất ấn tượng về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và công tác thu hút đầu tư trên toàn quốc.

Đối với các địa phương đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh, việc công bố quy hoạch tỉnh luôn gắn liền với công tác xúc tiến đầu tư. Theo số liệu thống kê, một số tỉnh đang triển triển khai quy hoạch tỉnh có mức thu hút đầu tư khá và tăng trưởng GRDP cao như Khánh Hòa (9,17%), Quảng Ninh (9,88%), Bắc Giang (12,25%), Tuyên Quang (7,96), Hà Tĩnh (7,68%) trong 09 tháng đầu năm 2023.

Mekong ASEAN: Với Quy hoạch tổng thể Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) là cơ quan trực tiếp thiết kế và tham mưu, từ một bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, đến khung các ngành, lĩnh vực có tiềm năng; từ xác định được các vùng động lực, các cực tăng trưởng quốc gia đến phác thảo các hành lang kinh tế. Nhiều lần nhấn mạnh “công việc vẫn còn nặng nề lắm”, Bộ trưởng có thể chia sẻ về những “công việc” này trong thời gian tới?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Quy hoạch tổng thể quốc gia được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai. Đây là một nhiệm vụ hoàn toàn mới và rất quan trọng, góp phần cụ thể hóa và triển khai thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua.

Quy hoạch tổng thể quốc gia xác định rõ mô hình phát triển theo không gian lãnh thổ của quốc gia, khai thác tối ưu tiềm năng, thế mạnh của các vùng, các ngành, các địa phương để tạo ra các động lực tăng trưởng và giá trị mới cho phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Trước tiên, Quy hoạch tổng thể quốc gia là Quy hoạch cấp cao nhất trong hệ thống quy hoạch của đất nước, do vậy, còn phải cụ thể hóa các định hướng của Quy hoạch tổng thể quốc gia tại các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.

Tính đến cuối năm 2023, có 16/39 quy hoạch ngành quốc gia được phê duyệt, khoảng 40/63 quy hoạch tỉnh được phê duyệt; 5 Quy hoạch vùng còn lại (ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long) cũng đã được Hội đồng thẩm định thông qua, đang hoàn thiện trình phê duyệt. Trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn bộ các quy hoạch sẽ được thẩm định, phê duyệt, tạo cơ sở đầy đủ cho triển khai các chương trình, dự án đầu tư trong thời gian từ nay đến 2030.

Thứ hai, Quy hoạch tổng thể quốc gia xác định nhiệm vụ hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia theo phương châm “hạ tầng đi trước một bước”. Có thể thấy thời gian vừa qua, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã đạt được những kết quả rất nổi bật. Trong năm 2023, đã hoàn thành, đưa vào khai thác 20 dự án, trong đó riêng đường bộ cao tốc với 9 dự án dài 475km, nâng tổng số chiều dài đường bộ cao tốc đưa vào khai thác trên cả nước lên gần 1.900 km.

Trong thời gian tới, vẫn còn những nhiệm vụ rất lớn mà trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã đề ra, như tiếp tục hoàn thiện mạng lưới đường bộ cao tốc, phát triển các cảng biển trung chuyển quốc tế, hoàn thành cảng hàng không quốc tế Long Thành, xây dựng đường sắt tốc độ cao…

Thứ ba, Quy hoạch tổng thể quốc gia nhấn mạnh vào tạo động lực, không gian phát triển mới và tăng cường liên kết thông qua các vùng động lực và hành lang kinh tế ưu tiên. Việc liên kết trước tiên cần được thể hiện từ trong quy hoạch. Các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh phải phù hợp và kết nối với các tuyến liên kết này của quốc gia, tạo nên sức mạnh tổng hợp chung.

Thứ tư, để thực hiện được mục tiêu đề ra, Quy hoạch tổng thể quốc gia đưa ra một loạt các giải pháp mang tính tổng thể về cơ chế, chính sách, huy động vốn đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường... Mỗi giải pháp đều yêu cầu cao về thay đổi tư duy, cách làm để đáp ứng những đòi hỏi của bối cảnh phát triển mới. Đây là một khối lượng công việc rất lớn và phức tạp, đòi hỏi sự chung tay cũng như nỗ lực hết mình, sức sáng tạo và tinh thần đổi mới của các cơ quan, đơn vị để có thể tạo ra được kết quả như mong muốn.

Mekong ASEAN: Trong định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng có đề cập “Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ số, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, nhất là điện tử, sản xuất chip bán dẫn”, Bộ trưởng sẽ có những tham mưu gì cho Chính phủ về định hướng này trong năm tới?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Công nghiệp điện tử gồm các phân khúc cơ bản trong chuỗi giá trị là thiết kế sản phẩm, sản xuất thành phần cốt lõi, đóng góp giá trị gia tăng cao của sản phẩm và sản xuất linh phụ kiện bổ trợ cho lắp ráp, hoàn chỉnh sản phẩm. Để tăng hàm lượng giá trị gia tăng và mức độ nội địa hóa sản phẩm Việt Nam cần hướng vào tham gia sản xuất ở phân khúc thiết kế và phân khúc sản xuất chip, vi mạch tích hợp, phần mềm cho thiết bị điện tử.

Công nghiệp chip bán dẫn gồm 4 phân khúc là sản xuất vật liệu bán dẫn cho sản xuất chip, thiết kế chip, in đúc chip và đóng gói, kiểm thử chíp. Các phân khúc sản xuất vật liệu và in đúc chíp cần vốn đầu tư rất lớn, công nghệ cao. Việt Nam phát triển công nghiệp chip bán dẫn trước mắt hướng vào tham gia các phân khúc thiết kế và đóng gói, kiểm thử chip. Đồng thời đẩy mạnh hợp tác, liên doanh liên kết với một số tập đoàn về công nghiệp bán dẫn hàng đầu trên thế giới để từng bước khai thác, chế biến nguồn đất hiếm có trong nước phục vụ cho sản xuất chip bán dẫn.

Rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ mạnh hơn để phát triển mạng lưới doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp khởi nghiệp, mạng lưới cơ sở KH&CN, khu công nghệ cao, mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo tham gia vào phát triển lĩnh vực công nghiệp điện tử, sản xuất chíp.

Nghiên cứu cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút các tập đoàn hàng đầu trên thế giới về công nghiệp điện tử, bán dẫn, sản xuất chip đầu tư vào Việt Nam, hợp tác với doanh nghiệp trong nước cùng sản xuất và chuyển giao công nghệ.

Mekong ASEAN: Như Bộ trưởng vừa đề cập, đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và ngành công nghiệp bán dẫn nói riêng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có sự đồng hành ra sao để nắm bắt, tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy nguồn lực để Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư, thu hút “đại bàng” đến xây tổ?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Thời gian qua, ở mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm, đồng hành, tạo các điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động doanh nghiệp thông qua chỉ đạo hàng loạt giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, tạo điều kiện về pháp lý, chủ động tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp.

Đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Sẵn sàng các điều kiện cần thiết thu hút đầu tư như mặt bằng sạch, cơ sở hạ tầng, năng lượng, lao động…Thường xuyên gặp mặt, tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài để lắng nghe các đề xuất, sáng kiến của doanh nghiệp .

Bộ KH&ĐT cũng đã chủ động tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế.

Thời gian tới, Bộ KH&ĐT sẽ tiếp tục tham mưu, xây dựng các kế hoạch, giải pháp mang tính đột phá để thu hút đầu tư nước ngoài đạt được hiệu quả, bền vững, trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, thúc đẩy đà phục hồi và phát triển trong tình hình mới.

Cùng với đó, phát huy ngoại lực, tinh thần sáng tạo, cộng hưởng sức mạnh, trí tuệ để chủ động thích ứng, kịp thời nắm bắt cơ hội, nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài, góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư tiềm năng, an toàn và hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.

Mekong ASEAN: Bối cảnh mới mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức, Bộ trưởng có thể chia sẻ quan điểm đối với việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, để từng bước làm chủ công nghệ lõi, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Xu hướng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CMCN 4.0 đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.

Hiện nay, công nghệ số và các doanh nghiệp công nghệ số được xác định là cốt lõi của mọi mô hình tăng trưởng nhanh và bền vững sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý Nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội.

Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong bối cảnh mới. Cuộc sống con người, thói quen tiêu dùng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã và đang thay đổi nhanh chóng theo hướng số hóa các hoạt động, buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực thay đổi và thích ứng.

Bên cạnh đó, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là con đường tất yếu của các quốc gia nếu muốn phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đây là một chủ trương lớn, quan trọng, một định hướng mang tầm chiến lược để các doanh nghiệp không bị tụt hậu, và phát triển bền vững.

Bối cảnh mới mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về quy mô, năng lực, trình độ quản trị,… và nếu không chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thì rất khó để nắm bắt được các cơ hội đó.

Để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước làm chủ công nghệ lõi, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, Bộ KH&ĐT cho rằng không chỉ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, mà cả các doanh nghiệp cũng cần phải hành động từ sớm, từ xa, để vượt qua thách thức, chủ động thích ứng, tận dụng cơ hội, phát triển bền vững tạo ra những giá trị mới.

Thứ nhất, Chính phủ tiếp tục kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh công bằng, thông thoáng và minh bạch; bãi bỏ các rào cản, quy định về điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý. Tháo gỡ những điểm nghẽn trong huy động nguồn lực, sản xuất kinh doanh phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế.

Thứ hai, Chính phủ cần nghiên cứu các chính sách khuyến khích đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu, đại học; kết nối giữa người mua và bán, sản xuất và tiêu dùng để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Nghiên cứu và thực hiện cơ chế thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, sớm đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, các Bộ, ngành, địa phương chủ động hỗ trợ doanh nghiệp để mở rộng thị trường, đa dạng hóa đối tác, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ qua đó thúc đẩy kết nối với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn, từng bước tham gia bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu, gia tăng giá trị sản xuất nội địa.

Thứ tư, các doanh nghiệp cần chủ động cập nhật, tiếp cận, ứng dụng công nghệ mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tiên phong đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, mạnh dạn đầu tư hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp; tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mới, công nghệ kỹ thuật khoa học hiện đại.

Thứ năm, nhằm góp phần thực hiện các giải pháp trên, Bộ KH&ĐT đã tham mưu xây dựng nhiều chính sách, triển khai nhiều hoạt động cụ thể như cụ thể hóa các chính sách của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, triển khai Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025...nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực, chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong thời gian tới, Bộ KH&ĐT sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc thúc đẩy các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp để tận dụng được các công nghệ số.

Mekong ASEAN: Xin cảm ơn những chia sẻ của Bộ trưởng!