Cuộc đua Net Zero

Ông LÊ MINH HOAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Cam kết nền nông nghiệp trách nhiệm, bền vững

Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ liên quan đến ngành nông nghiệp, bao gồm cam kết tham gia sáng kiến "Giảm phát thải khí methane toàn cầu" và cam kết thực hiện "Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất".

Trong 2 năm qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng, ban hành kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch triển khai "Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất"; triển khai thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) từ rừng vùng Bắc Trung Bộ và đang đàm phán cho vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Bộ cũng rà soát các dự án trao đổi tín chỉ carbon rừng nhằm thực hiện các sáng kiến tại COP26.

Những năm gần đây, ngành nông nghiệp nước ta đối mặt với thách thức lớn từ nội tại lẫn khách quan như biến đổi khí hậu, biến động thị trường và xu hướng tiêu dùng của thế giới. Những thách thức này đòi hỏi phải có sự thay đổi, dịch chuyển để hướng tới một nền nông nghiệp xanh, bền vững. Mục tiêu tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và hệ thống cung ứng lương thực - thực phẩm toàn cầu cần được chuyển hóa bằng những hành động cụ thể, bằng trách nhiệm của người sản xuất, nông dân và doanh nghiệp (DN).

Thực tế cho thấy nền nông nghiệp Việt Nam ngày càng thể hiện trách nhiệm mạnh mẽ hơn với cộng đồng quốc tế. Theo chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, chuyển đổi từ "tư duy sản xuất" sang "tư duy kinh tế", hướng tới những "giá trị xanh" được tạo nên từ chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh và kinh tế xanh.

Ảnh: VŨ MINH QUÂN

Nói đến kinh tế xanh, nông nghiệp xanh, trước tiên phải quay lại khái niệm kinh tế "nâu". Kinh tế "nâu" là nền kinh tế vì sự phát triển mà làm biến dạng môi trường, đa dạng sinh học. Môi trường tồn tại có thể không cần có con người nhưng con người tồn tại không thể không có môi trường xanh - gồm không khí để hít thở, bóng mát cây xanh để hưởng thụ. "Xanh" là sự cân bằng giữa phát triển và gìn giữ hệ sinh thái, môi trường tự nhiên.

Khi gặp các DN, hiệp hội xuất khẩu gỗ của Việt Nam, tôi cũng đã nói rằng trong tương lai, người ta không chỉ quan tâm việc sản xuất có vi phạm phá rừng hay không mà còn quan tâm hoạt động đó có sử dụng năng lượng hóa thạch không, có gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu không, có sử dụng lao động trẻ em không...? Khách hàng không đơn thuần mua sản phẩm mà còn mua cách tạo ra sản phẩm, nguồn gốc sản phẩm.

Ông NGUYỄN DUY HƯNG, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương: Ưu tiên đầu tư cho ứng phó biến đổi khí hậu

Ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước.

Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản gần nhất, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 30 độ C, mực nước biển dâng lên khoảng 0,6 - 1 m vào cuối thế kỷ 21. Biến đổi khí hậu cũng làm dịch chuyển các vùng khí hậu; tăng tần suất và mức độ ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của thiên tai như bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn...

Việt Nam đã rất mạnh mẽ cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 tại hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của ên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đưa ra những quan điểm nhất quán trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Theo đó, cần chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm phát thải khí nhà kính, carbon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của sản xuất. Giảm thiểu những rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra, nhất là khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ; xâm nhập mặn, sạt lở tại ĐBSCL; lũ ống, lũ quét, sạt lở núi ở khu vực trung du, miền núi. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.

Từ chủ trương của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tôi cho rằng ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm tài nguyên là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước và cần được xem là cơ sở, tiền đề để hoạch định đường lối, chính sách. Trong đó, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và DN đóng vai trò trung tâm, là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội.

Quan trọng không kém là cần xác định ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm tài nguyên gắn với chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0. Kết hợp chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, carbon thấp với chuyển đổi năng lượng công bằng và phát triển hệ thống lương thực trách nhiệm, bền vững cũng như phục hồi, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên. Cùng với đó là đẩy mạnh quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.

Cần ưu tiên đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và coi đó là đầu tư cho phát triển bền vững; đặt ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường là ưu tiên cao nhất trong các quyết định phát triển. Chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế, thân thiện với môi trường.

Mặt khác, cần xác định rõ tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên quan trọng. Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ về giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế; được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, bền vững, theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm an ninh tài nguyên.

Ông VŨ BÁ PHÚ, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công Thương: Xúc tiến xuất khẩu xanh

Tăng trưởng xanh, xuất khẩu xanh đang trở thành xu hướng trên toàn cầu, do đó đã hình thành "luật chơi" mới về thương mại và đầu tư. Các quy định, tiêu chuẩn liên quan yếu tố xanh - bao gồm tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội - đang dần được luật hóa tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, để không bị loại khỏi cuộc chơi, Việt Nam cần thay đổi tư duy, quan tâm tới "yêu cầu xanh" của chuỗi sản xuất và cung ứng thương mại quốc tế.

Chẳng hạn ở thị trường châu Âu (EU), Thỏa thuận Xanh là gói các sáng kiến chính sách khung nhằm mục tiêu xây dựng EU thành khu vực trung hòa về phát thải khí nhà kính vào năm 2050 và giảm thiểu sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong phát triển kinh tế. Việc EU từng bước thực thi Thỏa thuận Xanh sẽ có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh với thị trường này. EU là thị trường vô cùng quan trọng của Việt Nam nên việc theo dõi và thích ứng với các chính sách là yêu cầu cấp bách.

Sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn xanh có giá trị cao hơn rất nhiều lần so với sản phẩm thông thường. Trước đây, hàng hóa thuộc phân khúc cao cấp mới có tiêu chuẩn xanh, bền vững nhưng hiện nay, tiêu chuẩn này gắn với nhiều phân khúc hơn, trở thành yêu cầu phổ biến ở nhiều thị trường. Một số ngành hàng, DN trong nước đã chủ động nắm bắt xu hướng, có những bước chuyển đổi mạnh mẽ trong chuỗi sản xuất để đáp ứng tiêu chuẩn xanh, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của hàng Việt.

Tuy nhiên, khó khăn về nguồn lực để chuyển đổi quy trình sản xuất vẫn là rào cản lớn đối với DN, khiến thời gian chuyển đổi kéo dài hơn. Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cung cấp nhanh cho DN những thông tin, yêu cầu mới của các thị trường để có kế hoạch thay đổi, thích ứng. Bộ cũng đã và đang đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức, kỹ năng cho DN về chuyển đổi xanh, sản xuất xanh, xuất khẩu xanh.

Bà PHẠM THỊ THANH TÙNG, Phó vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - ân hàng Nhà nước: Thúc đẩy tín dụng xanh

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động xây dựng các giải pháp, chương trình góp phần hỗ trợ nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu. Cụ thể, xây dựng định hướng phát triển ngân hàng xanh, tăng tỉ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, các ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon. Mục tiêu đến năm 2025, 100% ngân hàng hình thành được quy định nội bộ và thực hiện đánh giá rủi ro môi trường, xã hội trong cấp tín dụng. Đồng thời, yêu cầu các tổ chức tín dụng tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường khi xem xét, quyết định cho vay; rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh.

Giai đoạn 2017 - 2022, bình quân tăng trưởng dư nợ tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh đạt hơn 23%/năm. Đến ngày 30-9-2023, dư nợ cấp tín dụng xanh là hơn 564.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).

Thời gian tới, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp, chính sách nhằm thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng xanh, trọng tâm là triển khai kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030.

Để các cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng thực sự có hiệu quả trong mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, NHNN kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo các bộ, ngành rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý. Cụ thể, có hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam, từ đó làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi cấp tín dụng xanh. Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ từng ngành, lĩnh vực phát triển xanh một cách đồng bộ, qua đó phát huy hiệu quả nguồn vốn xanh.

Ông VŨ ĐỨC GIANG, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam: Không chuyển đổi xanh thì không có đơn hàng

Xu thế tất yếu là DN phải đầu tư phát triển xanh, bền vững vì đó là điểm cộng để có đơn hàng. Hiện nay, các tập đoàn, tổng công ty lớn với đầy đủ năng lực tài chính, nguồn lực con người và thị trường ổn định đã đầu tư phát triển sản phẩm xanh, sản phẩm bền vững; sử dụng năng lượng tái tạo, chuyển đổi hệ thống đốt lò bằng nồi hơi, than đá, củi sang đốt bằng điện. Những DN quy mô vừa cũng có khả năng liên kết với DN lớn để thực hiện chiến lược phát triển này. Tuy nhiên, còn rất nhiều DN nhỏ chưa có điều kiện chuyển đổi xanh bởi việc này đòi hỏi phải có năng lực tài chính và khả năng đáp ứng các chuẩn mực đánh giá để ổn định đơn hàng.

Nhìn lại năm 2023, DN muốn tồn tại phải tuân thủ các điều khoản trong các hiệp định thương mại tự do, hợp đồng thương mại và trong các tiêu chí mà khách hàng đặt ra về các dòng sản phẩm tái chế, liên kết chuỗi... Để làm được, DN phải có tài chính cho đầu tư, đồng thời nhà nước phải xây dựng chính sách thông suốt, tạo điều kiện cho DN bắt kịp xu thế.

Thủ tướng đã ban hành Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035. Hiệp hội Dệt may Việt Nam đang cùng Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ ban hành hướng dẫn cụ thể để các địa phương xây dựng quy hoạch đầu tư vào các khu công nghiệp đạt chuẩn môi trường, nước thải; kêu gọi DN đầu tư vào phần nguyên liệu vải đang thiếu hụt. ộ Tài nguyên và Môi trường cũng cần có quỹ hỗ trợ các khu công nghiệp đầu tư vào các nhà máy xử lý nước thải đạt chuẩn về môi trường, giúp DN giảm nhập khẩu từ bên ngoài và chủ động nắm bắt, tận dụng ưu đãi trong các hiệp định thương mại.

TS ĐẶNG TỰ ÂN, Giám đốc Quỹ Quốc gia đổi mới giáo dục phổ thông: Trường học xanh sẽ dẫn đầu xu hướng

Muốn có con người xanh phải có đô thị xanh. Muốn đô thị xanh phải có nhiều công trình xanh, bao gồm cả trường học xanh. Trong bối cảnh hiện nay, trường học xanh được kỳ vọng dẫn đầu xu hướng giáo dục về lối sống bền vững dựa trên phương pháp thay đổi hành vi ngay từ nhỏ, giúp trẻ định hình được cách sống xanh.

Có 3 yếu tố để hình thành một trường học xanh, bền vững và thân thiện môi trường. Đó là xây dựng cơ sở vật chất xanh, chương trình giảng dạy xanh và tính chất cộng đồng xanh. Ngôi trường xanh trước tiên phải có mục tiêu giảm tác động có hại lên môi trường, không lãng phí và sử dụng hiệu quả năng lượng, nước cũng như hạn chế phát thải từ các sinh hoạt tại trường. Kế đến là có chương trình giảng dạy với mục tiêu chú trọng kỹ năng sinh thái và vươn ra cộng đồng.

Việt Nam có nhiều phong trào kêu gọi sống xanh và phát triển bền vững như nhặt rác, giảm dùng đồ nhựa... Tuy nhiên, những hoạt động này chỉ giải quyết phần ngọn của vấn đề. Thói quen sống gây tổn thương môi trường đã tồn tại quá lâu và khó thay đổi triệt để. Tôi cho rằng giáo dục trẻ từ những năm đầu đời về cả kiến thức và tinh thần trách nhiệm sẽ là cách làm thay đổi xã hội tích cực, hiệu quả nhất.

Nhiều địa phương đã ban hành kế hoạch tuyên truyền, giáo dục bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để mỗi học sinh vừa là người có ý thức bảo vệ môi trường vừa là tuyên truyền viên tích cực vận động gia đình, người thân và xã hội chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng vừa cùng Quỹ Vì tương lai xanh ký thỏa thuận hợp tác triển khai chương trình Giáo dục Xanh tại các cơ sở giáo dục - đào tạo trên cả nước. Với chương trình này, học sinh - sinh viên là nhân tố quan trọng giúp thúc đẩy xanh hóa trường học, xanh hóa bầu trời. Từ những hành động nhỏ, những thói quen lành mạnh về sống xanh, chúng ta sẽ có những chủ nhân khỏe mạnh cả về trí tuệ, thể chất và đạo đức trong tương lai.

NHÓM PHÓNG VIÊN