Nói chuyện con tằm

Tằm ăn lên (cũng gọi là tằm ăn rỗi) rào rào, đến một lúc ngẩn ngơ như “thiền”, rồi bỏ ăn lơi lả, rồi “chín” rực cơ thể. Tức là đang mang màu xanh xám, bỗng dưng con tằm nhịn ăn mà tiêu hóa hết mọi thứ trong lòng ruột, đào thải hết các chất uế tạp trở nên thanh sạch thì toàn thân nở ra, hóa vàng rực. Cứ như một sự hóa kiếp thần kỳ nào đó vậy.

Người xưa có câu: “Nuôi lợn ăn cơm nằm/Nuôi tằm ăn cơm đứng”, cũng có dị bản là: “Làm ruộng ăn cơm nằm/Chăn tằm ăn cơm đứng”. Nghĩa là, việc nuôi tằm ngày trước rất vất vả. Để nuôi được những nong tằm phát triển tốt, người ta phải trồng dâu, hái lá dâu, thái nhỏ lá cho tằm ăn, canh tằm ngủ… Khi tằm ăn lên thì không phải thái lá dâu nữa, chỉ cần bỏ nguyên lá, nhưng tốc độ ăn thì phi thường, suốt ngày đêm. Vậy nên có câu “Ăn như tằm ăn rỗi” là thế.

Người dân thôn Bầu Zút (thị trấn Chư Sê) phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm. Ảnh: Nguyễn Quang

Lại còn phải mắc màn cho tằm ăn tằm ngủ. Giống tằm sợ nhất là loài ruồi ký sinh. Hễ sổng ra, bọn ruồi châm vào con tằm nào là con ấy bỗng dưng đầu to thân tóp, vàng dớt quắt queo. Những con tằm ấy gọi là “tằm sắt”. Tằm sắt thì không lớn được, không có khả năng “chín”, không kéo kén hóa ngài được.

Ngày trời nóng thì phải quạt mát cho tằm, dù chỉ bằng quạt mo, quạt giấy. Ngày trời mưa sấm sét phải đóng kín cửa phòng, cữ cho tằm khỏi mê hoảng mà lăn quay ra chết. Đó là chưa kể tới việc đôi khi, nhà nuôi tằm còn cữ nhiều điều khác như: người lạ, người có kinh nguyệt, người nặng vía không được vào khu vực những con tằm ăn ngủ.

Con tằm chín thì quây tơ làm kén, người xưa bảo tằm rút ruột xây tổ. Khi tằm quây kén, người nuôi tằm thường hái những cành lá tre nhỏ bỏ vào nong nia lổng chổng cho những con tằm chậm rãi bò tìm, rồi “thôi miên” ở đó mà thành những cái kén vàng hươm.

Nhà nông sẽ lựa những cái kén đẹp, cất vào một chỗ kín mát, để đúng ngày thì “ngài” sẽ cắn thủng một đầu tổ chui ra. Ngài đực và ngài cái sẽ cặp đôi trên những tờ giấy phẳng phiu, rồi con cái cứ đẻ trứng bết ngay trên trang giấy ấy. Trứng tằm là những hạt trắng xám li ti được để vào nơi mát mẻ, kín đáo. Mấy ngày sau, trứng tằm sẽ chuyển màu từ trắng đục sang màu đen, rồi nở ra tằm con.

Những cái kén không được lựa chọn làm giống thì sẽ bị đem luộc chín, rồi kéo tơ. Kén luộc xong đem ngâm vào trong chậu nước. Người ta sẽ dùng hai bàn tay khéo léo để vuốt ra những sợi tơ vàng. Tơ tằm thời ấy, chủ yếu được nhà nông se thành sợi, rồi dệt đũi bằng cái bàn dệt con thoi. Vải đũi tơ tằm là thứ vải thô mộc, được dùng may quần áo cho những người bình dân.

Sau khi kéo kén, những con nhộng tằm được thu lượm, chế biến thành những món ăn bổ dưỡng. “Tằm xanh”, “tằm chín” cũng là những món thuốc bồi bổ sức khỏe được lưu truyền trong dân gian.

Hồi bao cấp, tỉnh Gia Lai-Kon Tum từng có trại tằm ở Lệ Chí khá bề thế, với bộ khung được chuyển từ vùng Nông trường Đông Hiếu, Tây Hiếu vào mở mang đất mới. Rồi Công ty Dâu tằm tơ Bảo Lộc của ông Nguyễn Văn làm ăn khá rầm rộ. Những cơ sở ấy, về sau không đủ sức cạnh tranh với cả nền công nghiệp dệt may hiện đại buộc phải giải thể.

Bẵng đi nhiều năm, tưởng nghề trồng dâu nuôi tằm đã bị mai một trước công nghệ dệt may tiên tiến. Nhưng rồi, việc nuôi tằm đã được phục hồi một cách ngoạn mục. Giống tằm được các công ty chuyên nghiệp cấp, là giống mới cao sản đã cho nở đến tuổi “ăn hai”, “ăn ba”; cây dâu cũng được công ty cung cấp giống J7 năng suất cao, chất lượng tốt. Tằm nuôi mỗi ngày chỉ cần cho ăn 3 lần, 1 đời tằm (khoảng 16 ngày) chỉ cần thay phân 2-3 lần.

Nghề dâu tằm đã mở rộng nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh. Tại tổ 6 (phường Yên Thế, TP. Pleiku) cũng đã có trại tằm quy mô 14 ha dâu, với cơ sở nhà xưởng công nghiệp hiện đại để nuôi tằm theo phương thức mới. Theo anh Nguyễn Thế Tấn-Chủ trại tằm, người nuôi tằm ngày nay chỉ cần xây trang trại, thiết kế vườn trồng dâu, tiếp nhận những hộp tằm giống thả ra nền nhà, cho ăn và chờ lấy kén; không phải thức khuya dậy sớm, không phải căng mùng kiêng cữ như xưa.

Tôi hỏi anh Tấn: “Người xưa bảo, “một nong tằm là năm nong kén/Một nong kén là chín nén tơ”. Vậy theo anh điều đó có còn đúng không?”. Anh Tấn cười vui trả lời: “Chuyện xưa thì tôi không rõ. Bây giờ không còn có chuyện nuôi tằm trong nong, mà thả trên nền xi măng có quây lưới nhựa, không ai tính tỷ lệ như vậy nữa. Chỉ biết, 1 ha dâu trồng có tưới nước, bón phân hữu cơ như phân bò, trấu cà phê, đạm cá, kích đọt, có thể cho thu nhập 500-600 triệu đồng/năm”.

Ở một số trường đại học nông nghiệp, nghề nuôi tằm, nuôi ong tuy là nuôi động vật, nhưng lại thuộc về ngành trồng trọt. Chắc là, hoa lá chiếm phần quan trọng trong nghề ấy. Là kỹ sư chăn nuôi, không được học về tằm, nhưng ký ức tuổi thơ đã cho tôi một tình yêu lãng mạn với con vật nhỏ nhoi ấy.