Nhân kỷ niệm lần thứ 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021) : Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bác Hồ thăm lớp học vỡ lòng ở phố Hàng Than, khu Trúc Bạch, Hà Nội, ngày 31-12-1958. (Ảnh tư liệu).

Thứ nhất, tăng cường học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, coi đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Gắn kết, phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong việc ban hành các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục và đào tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Nhân dân và toàn xã hội về vị trí, vai trò, mục tiêu của giáo dục và đào tạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(1). Người nhấn mạnh giáo dục và đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển. Do đó, đầu tư phát triển giáo dục sẽ đem lại lợi ích bền vững cho dân tộc, góp phần đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Với quan niệm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(2), ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một trong những nhiệm vụ cấp bách của nước ta lúc bấy giờ là diệt giặc dốt bởi khi đó hơn 90% đồng bào ta mù chữ. Trong Thư gửi các học sinh trong năm học đầu tiên khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (tháng 9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(4). Đó là một nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, thực học, không chạy theo bằng cấp, không chạy theo khối lượng kiến thức mà cần chú trọng nâng cao chất lượng, là nền giáo dục độc lập, tiến bộ, dân tộc, thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, một nền giáo dục vì con người, cho con người phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, làm rạng danh non sông. Người từng khẳng định: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(5). Chính vì mục tiêu cao cả và vai trò to lớn của giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu cần có tầm nhìn dài hạn trong chiến lược phát triển giáo dục của quốc gia, phải coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.

Thứ hai, đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở đào tạo theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, phát huy giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần có tầm nhìn dài hạn trong quản lý giáo dục, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, bảo đảm tính hệ thống trên cơ sở thực hiện Tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh cần xác định nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh và phù hợp với thực tiễn đất nước. Nội dung giáo dục phải toàn diện nhằm phát triển con người cả tài và đức, cụ thể gồm: “Thể dục: Để làm thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung. Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới. Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp. Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công”(6). Nội dung của giáo dục cần phù hợp với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, bậc học. Trong thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31-10-1955, Người căn dặn: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”(7). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương pháp giáo dục đúng đắn, hiệu quả là học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, việc học tập phải xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết thực, không phô trương, hình thức, phải học cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến bản chất vấn đề. Người chỉ rõ: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”(8)… “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế”(9). Người từng khẳng định, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm trang bị cho mỗi người thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để nhận thức và hành động đúng đắn, kiên quyết, sáng tạo và hiệu quả, nhất là không học một cách giáo điều theo câu chữ mà là học tập tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự học không có trang sách cuối cùng, học trên ghế nhà trường, học trong cuộc sống, học tập là công việc suốt đời, do vậy giáo dục là sự nghiệp lâu dài, bền bỉ. Người nhấn mạnh: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(10).

Thứ ba, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Thống nhất giữa hệ thống các chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục. Tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và có hệ thống giữa các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đoàn thể, sự phối hợp gia đình - nhà trường - xã hội trong hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và triển khai cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý Nhà nước về giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội: “Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”(11)… “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”(12). Hoạt động quản lý giáo dục luôn rất cần có sự phối hợp của các cấp, ngành và toàn xã hội. Người chỉ rõ, để có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa thầy với thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa nhà trường với Nhân dân, chú trọng các phong trào thi đua để tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh. Người nhấn mạnh cần phải đi sâu vào điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quản lý giáo dục. Việc ban hành các chủ trương, chính sách về giáo dục phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn, kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính sách của Trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương để nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục. Cần nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược quản lý chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách tuyển dụng, quy trình tuyển chọn, bố trí, phân công nhiệm vụ, đánh giá và đãi ngộ lực lượng làm công tác giáo dục và quản lý giáo dục. Nâng cao hiệu quả việc quản lý tài chính, phân bổ nguồn lực, bảo đảm dân chủ, khách quan trong giáo dục và đào tạo. Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục và đào tạo. Thực hiện quản lý theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển nhân lực của từng ngành, địa phương trong từng giai đoạn phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.

Thứ tư, chú trọng công tác xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục - lực lượng cơ bản tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Xây dựng đội ngũ nhà giáo có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là xây dựng đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Họ, người mang sứ mệnh cao cả là đào tạo lớp người kế cận cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất... những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh... nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”(13). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo cần phải có đạo đức, trí tuệ, tài năng, phải không ngừng trau dồi kiến thức, là tấm gương tốt cho các thế hệ học sinh noi theo: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức... Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”(14).

Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào tạo trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nước, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, giám sát hoạt động giáo dục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục và đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức tốt, thực chất công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh thi đua dạy tốt, học tốt. Nhân rộng những mô hình giáo dục và đào tạo hiệu quả trong nước, nghiên cứu chọn lọc áp dụng một số mô hình giáo dục và đào tạo của thế giới vào nhà trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

-----

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG-ST, H.2011, tập 11, tr.528. (2) Sđd, tập 4, tr.7. (3) Sđd, tập 4, tr.35. (4) Sđd, tập 4, tr.35. (5) Sđd, tập 6, tr.208. (6) Sđd, tập 10, tr.175. (7) Sđd, tập 10, tr.186. (8) Sđd, tập 14, tr.402. (9) Sđd, tập 5, tr.275. (10) Sđd, tập 6, tr.61. (11) Sđd, tập 10, tr.591. (12) Sđd, tập 14, tr.747. (13) Sđd, tập 14, tr.402, 403. (14) Sđd, tập 12, tr.270.

Nguyễn HươngHọc viện Báo chí và Tuyên truyền