Khi phóng viên đặt câu hỏi về những kiến thức được học, nguyên Thứ trưởng Nguyễn Phú Bình kể lại câu chuyện ông Nguyễn Cơ Thạch khi được cử đi làm Tổng lãnh sự ở Ấn Độ (năm 1956) đã hỏi Bác Hồ: Tôi không biết gì về ngoại giao thì làm thế nào?
Bác Hồ nói: Cứ xem người ta làm thế nào thì làm theo thôi. Thế nên trong bữa tiệc đầu tiên ở sở tại, Tổng Lãnh sự Nguyễn Cơ Thạch đã không ăn món được phục vụ đầu tiên vì… “phải nhìn xem những người khác cầm thìa dĩa như thế nào để làm theo!”
Bởi vậy, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã rất chú trọng vào giáo trình của lớp kiến thức ngoại giao.
Ông “ra đầu bài” cho đội ngũ những cán bộ đã từng học ở nước ngoài về, hoặc cán bộ giảng dạy Đại học Ngoại giao biên soạn giáo trình cho các môn học cần thiết, cơ bản nhất cho các cán bộ ngoại giao, bao gồm: Quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại, kinh tế (kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam) và pháp luật quốc tế.
“Là người vừa mới vào ngành, vẫn còn trẻ, được đi học một lớp bài bản về ngoại giao như vậy nên chúng tôi cảm thấy đầu óc được mở mang, không phải ‘nhìn người khác rồi làm theo’ nữa.
Không chỉ hiểu về lịch sử ngoại giao Việt Nam, chúng tôi còn biết lịch sử quan hệ quốc tế, biết tại sao nổ ra các cuộc chiến tranh thế giới, tại sao hình thành các liên minh… Không khí trong ngành lúc đó phấn khởi lắm. Mọi người cảm thấy mình đã được trang bị để trở thành một cán bộ ngoại giao thực sự”, ông Bình nhớ lại.
Sau khi lớp tập sự cấp Vụ thành công, đầu những năm 1980, Bộ mới đặt ra cơ chế tập sự cấp Bộ, gọi là trợ lý Bộ trưởng. Đây cũng là sáng kiến của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, và Bộ Ngoại giao cũng là Bộ đầu tiên có cơ chế này.
Kiên trì quan điểm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, ông là kiến trúc sư của Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (5/1988) với mục tiêu tranh thủ các lực lượng tiến bộ, phân hóa hàng ngũ đối phương làm thất bại âm mưu cô lập ta về chính trị và kinh tế, chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong “cùng tồn tại hòa bình”, tận dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới để có được vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.
Đáng chú ý, trong quá trình chỉ đạo xây dựng Nghị quyết 13, đã xảy ra sự kiện Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma trong Quần đảo Trường Sa (3/1988). Mặc dù vậy, ông vẫn kiên trì tư tưởng lớn là “phải giữ vững hòa bình để tập trung phát triển kinh tế”, bởi vì nếu đất nước tiếp tục bị bao vây cấm vận, kinh tế suy sụp, đời sống nhân dân khổ thì chủ quyền lãnh thổ cũng khó lòng giữ được.
Cũng với tư duy đó, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã chủ động mở đối thoại với Trung Quốc, trước hết với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, thúc đẩy mở kênh đối thoại về tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA), thúc đẩy đàm phán với Cao ủy LHQ về người tị nạn (HCR) để giải quyết vấn đề người tị nạn.
Khi tình hình Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều dấu hiệu khủng hoảng, ông chủ trương đẩy nhanh việc mở cửa về kinh tế, trước hết với Đông Nam Á và các nước phương Tây.
Chính ông đã dẫn đầu Đoàn Việt Nam tham gia Hội thảo “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” tại Bangkok năm 1989, theo sáng kiến của Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan.
Và cũng chính ông đã dẫn đầu Đoàn Việt Nam lần đầu tiên tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tại Davos (Thụy Sỹ) năm 1989, đồng thời nối lại quan hệ với Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), các tổ chức của LHQ, bước đầu mở ra quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới.
Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, Phó Thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch đã sớm nhận ra sự bất cập của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp và cũng năm 1989, trong một chuyến đi công tác nước ngoài, ông đã mang về cuốn sách “Kinh tế học” của P.Samuelson cho dịch sang tiếng Việt, xuất bản và gửi cho các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan quản lý, nghiên cứu, mở ra con đường Việt Nam tiếp cận với nền kinh tế thị trường.
Với những quan điểm mới và kinh nghiệm các nước, ông cũng tham gia tích cực việc xử lý vấn đề lạm phát, thiếu hụt hàng hóa, lương thực…, lựa chọn mô hình phát triển kinh tế, từ đó, có đóng góp to lớn cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Ngày nay, công chúng đã rất quen với những thuật ngữ về công nghệ thông tin (IT) như chính phủ điện tử, điện toán đám mây, big data, chuyển đổi số… nhưng vài năm trước, chỉ những chuyên gia về IT mới sử dụng ngôn ngữ này.
“Vậy mà, tôi nhớ là trong nhiệm kỳ Đại sứ ở Hàn Quốc, khi về nước họp Hội nghị ngoại giao năm 1994, tôi đến thăm ông tại nhà, ông hỏi tôi ngay: Hàn Quốc phát triển kinh tế thành công như thế, theo cậu, họ đi theo mô hình nào, lĩnh vực mũi nhọn là gì?
Sau khi nghe tôi trả lời, ông bảo: Kinh nghiệm và mô hình của họ thì ta phải học rồi. Nhưng trong tình hình mới, cứ rập khuôn như vậy thì khó tiến nhanh lắm. Việc Samsung tập trung phát triển lĩnh vực công nghiệp điện tử là gợi ý tốt cho ta. Nếu ta cứ tập trung xây dựng các ngành công nghiệp thì lấy đâu ra vốn. Nhưng nếu ta lựa chọn IT và công nghiệp điện tử là ngành mũi nhọn thì mới có thể ‘đi tắt đón đầu’ được.
Tôi nghe anh em Việt kiều nói, nhiều nhà khoa học nước ngoài đánh giá người Việt Nam có tư duy toán học tốt, nên đào tạo nguồn nhân lực tốt cho lĩnh vực này không phải là điều gì quá tầm của chúng ta. Ý kiến của Phó Thủ tướng gần 30 năm trước, đang trở thành vấn đề thời sự hôm nay.
Có thể nói tư duy, đánh giá và đề xuất của ông thường đi trước thời đại nên không phải lúc nào cũng được chấp nhận và đánh giá đúng. Nhưng ông không nản chí, vẫn kiên trì và quyết liệt, tất cả vì lợi ích quốc gia-dân tộc”.
Nguyên Thứ trưởng Nguyễn Phú Bình nhớ mãi sự công tâm và tính cần kiệm của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
Năm 1991, khi ông Bình đến chào thủ trưởng (lúc này đã nghỉ hưu) để đi học nâng cao tiếng Anh ở New Zealand, ông Thạch hỏi: “Ơ, thế lâu nay cậu dùng tiếng gì?”.
Khi nghe ông Bình trả lời: “Em đi học ở Triều Tiên nên thạo tiếng Triều Tiên, tiếng Anh tự học nên chỉ đọc được thôi”, ông Thạch đã rất ngạc nhiên.
“Thì ra, trước đó, ông cũng chỉ biết tôi qua công việc, không hề biết gốc gác của tôi. Điều đó cho thấy Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch rất công tâm, bổ nhiệm cán bộ dựa theo đánh giá trên thực tế và kết quả công việc chứ không hề theo cảm tính hay tình cảm cá nhân”.
Lần cuối cùng chuẩn bị cho Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đi họp Đại hội đồng LHQ năm 1991, ông Bình đã liên hệ Đại sứ quán Việt Nam ở Bangkok mua vé (vì từ Hà Nội phải sang Bangkok rồi mới bay sang Mỹ).
Do hết vé hạng thường (Economy), sứ quán không còn cách nào khác đã mua vé hạng thương gia cho ông. Ông Bình không dám thông báo cho Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, vì từ trước tới giờ, theo yêu cầu của ông, chỉ được mua vé hạng thường.
Tuy nhiên, đến trước chuyến bay, ông Bình đã phải nói thật cho Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, và phải giải thích mãi ông mới không phê bình nữa...
Một chuyện khác, theo yêu cầu của Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương, Văn phòng Bộ chuẩn bị bữa ăn nhẹ cho Bộ trưởng khoảng 10 giờ sáng. Bữa ăn nhẹ gồm một cốc sữa và bánh quy.
Được vài hôm, ông Thạch hỏi: Các cậu có phục vụ các anh lãnh đạo Bộ khác như vậy không?
Khi được biết chỉ mình nhận được “chế độ đặc biệt ấy”, ông đã nhất quyết từ chối.
“Trực tiếp phục vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, ông có thấy áp lực không? Đã bao giờ ông bị ‘sếp’ mắng chưa?”, phóng viên hỏi.
Ông Bình nói: “Cũng như mọi người, tôi bị ông phê bình khi mắc thiếu sót, nhưng cũng có việc khi hiểu ra, ông dịu giọng, có cách đối xử trìu mến, nhẹ nhàng.
Còn những lúc ông ‘quay’, ông ‘truy’, cũng chỉ là giúp cho mọi người nắm rõ công việc, làm công việc tốt hơn, và qua đó ngày một trưởng thành hơn”.
Với ông Bình, từ một cán bộ trẻ của Vụ Đông Bắc Á, nhờ chế độ tập sự cấp Vụ mà trở thành trợ lý Vụ trưởng, rồi về Vụ Chính sách Đối ngoại, được đề bạt Phó Vụ trưởng, chuyển sang làm Phó Chánh Văn phòng rồi Chánh Văn phòng.
“Từ một người rụt rè thiếu tự tin, được trưởng thành như ngày nay đều nhờ công rất lớn của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch”, ông Bình nói.
Ông Bình cũng học được rất nhiều ở tầm nhìn và phương pháp làm việc của ông Thạch.
“Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có tác phong rất đàng hoàng trước những đối thủ và bình tĩnh trước những vấn đề nan giải. Những điều này giúp tôi rất nhiều trong suốt quá trình công tác sau này.
Mỗi khi gặp khó khăn, thử thách, nhất là trong các nhiệm kỳ Đại sứ ở nước ngoài, phải ‘độc lập tác chiến’, tôi luôn nhớ đến Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Lúc đó tôi nghĩ: Lúc chiến tranh khó khăn, kinh khủng thế, thời kỳ bị bao vây cấm vận gian nan như thế, đất nước còn vượt qua được.
Như Bộ trưởng Nguyễn Có Thạch đã chỉ bảo: Khó khăn lúc này không thể so với lúc chiến tranh, dù trong tình hình ngặt nghèo đến mấy cũng phải tỉnh táo đánh giá, tìm ra kịch bản ít xấu nhất, giống như trong công tác nghiên cứu, cuối cùng phải đặt ra các phương án tối ưu, tối thiểu… từ đó lựa chọn các biện pháp thích hợp để ứng phó”.
“Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người có công lớn với ngành, nên vào dịp kỷ niệm 5 năm ông đi xa, nhiều người muốn xây dựng một cuốn sách tập trung viết về những đóng góp của ông, những câu chuyện kể về ông trong lĩnh vực ngoại giao như là một cuốn cẩm nang cho thế hệ sau”, ông Bình trầm ngâm, khi nói về cuốn sách xuất bản năm 2003, có tựa đề “Nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch” mà ông chỉ đạo biên soạn với tư cách Thứ trưởng Ngoại giao.
Ông Bình cho biết, lúc đó, cân nhắc kỹ, ai cũng thấy rằng Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trước hết là một chiến sỹ cách mạng tham gia đấu tranh từ rất sớm, rồi trở thành một chính khách nổi tiếng. Ông cũng được nhiều bạn bè quốc tế, kể cả những người từng là đối thủ của ông ca ngợi và ngưỡng mộ. Bởi vậy cuốn sách đã dành cho những đồng chí cùng thế hệ với ông nói về ông, và bạn bè quốc tế thể hiện tình cảm với ông.
Nguyên Thứ trưởng hy vọng rằng, năm nay, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, chúng ta có thể tập hợp lại tư liệu và bài viết về cố Bộ trưởng, những công trình mà ông để lại, xây dựng nên bộ sách hoàn chỉnh “Nhà lãnh đạo - Nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch”, không chỉ cho hôm nay mà cho các thế hệ cán bộ ngoại giao tương lai.
Với Đại sứ Nguyễn Phú Bình, vị thủ trưởng đánh kính “là con người của huyền thoại, nhưng cũng rất thực tế: từ một nhà cách mạng với hành trang tù đày và hoạt động bí mật như nhiều vị lãnh đạo tiền bối khác, từ chiến sĩ trận mạc được Đảng phân công làm công tác ngoại giao với vốn hiểu biết hoàn toàn bằng không, ông đã tự đọc, tự học, tự tìm hiểu, tự tích lũy vốn kiến thức, cùng với tư duy sắc sảo, ông đã trở thành một nhà ngoại giao lỗi lạc, xây dựng nền ngoại giao Việt Nam tiếp bước sự nghiệp của Bác Hồ”.
“Ông đã rời xa chúng ta 23 năm, nhưng không bao giờ tôi nghĩ về ông như một nhân vật của quá khứ”.
Lý do mà nguyên Thứ trưởng Nguyễn Phú Bình đưa ra là “bởi vì cho đến nay, toàn bộ tổ chức bộ máy, phương thức điều hành, phương pháp luận ngoại giao, cho đến công tác đào tạo, sử dụng cán bộ, văn hóa, lối sống của cán bộ ngành ngoại giao vẫn cơ bản thực hiện theo đường hướng mà ông đã vạch ra 40 năm trước, với những phát triển mới”.