Để tận dụng tiềm năng phát triển ngân hàng số ở Việt Nam

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tiềm năng phát triển ngân hàng số tại Việt Nam

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 2020, dân số là 97,58 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm gần 70%. Tính đến cuối năm 2020, toàn thị trường có trên 280.000 POS và 19.500 ATM (tăng 3% so với cùng kỳ năm trước); Số lượng giao dịch qua POS đạt 287 triệu giao dịch với giá trị đạt 494,16 nghìn tỷ đồng; số lượng giao dịch qua ATM đạt 841,16 triệu giao dịch với giá trị đạt gần 3 triệu tỷ đồng. Toàn thị trường có khoảng 90.000 điểm chấp thuận thanh toán QR code.

Tính đến cuối năm 2020, đã có 77 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động; Số lượng giao dịch thanh toán qua Internet đạt gần 374 triệu giao dịch với giá trị đạt hơn 22,4 triệu tỷ đồng; số lượng giao dịch thanh toán qua điện thoại di động đạt gần 918,8 triệu giao dịch với giá trị đạt gần 9,6 triệu tỷ đồng.

Theo khảo sát của EY Việt Nam về chuyển đổi số trong ngành ngân hàng tại Việt Nam cho thấy, 42% ngân hàng đang xây dựng chiến lược chuyển đổi số; 28% ngân hàng đã và đang thực hiện triển khai Chiến lược Chuyển đổi Số tích hợp với Chiến lược Kinh doanh; 11% ngân hàng đã phê duyệt và đang triển khai Chiến lược Chuyển đổi số riêng.

Phần lớn các tổ chức tín dụng tham gia khảo sát không chỉ triển khai đa dạng dịch vụ cho khách hàng trên kênh số… 47-77% ngân hàng đã triển khai thanh toán hóa đơn, thanh toán thương mại điện tử, chuyển tiền, tiết kiệm trực tuyến. 41,2% ngân hàng kỳ vọng triển khai đăng ký và xét duyệt khoản vay trên kênh số.

Ngoài ra, các ngân hàng còn tập trung số hóa các hoạt động nghiệp vụ, vận hành nội bộ. Cụ thể, 73% ngân hàng quy trình hoạt động liên tục; 47,6% hệ thống quản lý quan hệ khách hàng; 42,8% chữ ký điện tử, chữ ký số nội bộ.

Một số đề xuất phát huy tiềm năng phát triển ngân hàng số

Mặc dù, việc phát triển ngân hàng số tại Việt Nam bước đầu khá khả quan thuận được nhiều ngân hàng thương mại đón nhận và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi hoàn toàn các ngân hàng thương mại truyền thống sang ngân hàng số, cần có nhiều giải pháp được triển khai mạnh mẽ.

Một là, lấy khách hàng làm trung tâm. Nếu như trước đây các ngân hàng truyền thống thường chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì giờ đây để có thể chuyển đổi sang ngân hàng số thành công cần phải lấy khách hàng làm trọng tâm. Theo đó, cần đưa ra nhiều sáng kiến, cải tiến, tiết kiệm thời gian và công sức cho khách hàng cũng như nhân viên.

Hai là, thay đổi mô hình theo hướng tích hợp nhiều kênh và hợp tác với các công ty công nghệ tài chính. Theo kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài, một trong những thành công khi chuyển đổi sang ngân hàng số là sự chuyển đổi số các kênh của hệ thống ngân hàng truyền thống, hợp tác với các Fintech nhằm tận dụng được mô hình kinh doanh tinh gọn, hướng tới trải nghiệm khách hàng về sự đổi mới, sáng tạo đem lại lợi ích thiết thực là giảm chi phí, tăng tiện ích, thuận lợi cho khách hàng đặc biệt là các khách hàng địa bàn vùng sâu, vùng xa, nông thôn.

Ba là, chủ động về ngân sách cũng như nguồn lực thích đáng cho việc đầu tư phát triển ngân hàng số.

Bốn là, để có thể thành công trong công cuộc chuyển đổi và phát triển mô hình ngân hàng số, cần phải có một đội ngũ nhân viên với trình độ công nghệ cao, có khả năng vận hành hệ thống số một cách tốt nhất, đảm bảo tính bảo mật thông tin.

Huỳnh Hiền